Mẫu đơn khiếu nại giải quyết tranh chấp đất với UBND cấp xã

docx5 trang | Chia sẻ: hoaiantb | Ngày: 24/10/2022 | Lượt xem: 564 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem nội dung tài liệu Mẫu đơn khiếu nại giải quyết tranh chấp đất với UBND cấp xã, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập-Tự do-Hạnh phúc ĐƠN KHIẾU NẠI Kính gửi: Ủy Ban Nhân Dân Huyện , Thành Phố Hà Nội. Tên tôi là: Đỗ Văn M, đăng ký hộ khẩu thường trú tại đội ., thôn , xã , huyện , thành phố Hà Nội. Tôi làm đơn này khiếu nại Kết luận số ./KL-UBND về việc trả lời đơn đề nghị của ông Đỗ Văn Mì, thôn .. của UBND xã .. lập ngày tháng năm 20... Nội dung khiếu nại cụ thể như sau: Thứ nhất: Gia đình tôi có mua một mảnh đất của Ông Đỗ Văn K (đã mất) và bà Nguyễn Thị X tại: Đội , thôn , xã , huyện , thành phố Hà Nội vào ngày tháng năm 19 (mảnh đất trên có nguồn gốc sử dụng ổn định từ năm 1981). Gia đình chúng tôi sử dụng ổn định, lâu dài không tranh chấp và đóng thuế đầy đủ cho nhà nước từ đó đến nay theo đúng hướng dẫn của UBND xã . Do nhà cấp bốn xây dựng đã lâu năm nên thường xuyên dột, kết cấu nhà thiếu bền vững có thể bị độ sập bất kỳ khi nào gây nguy hiểm đối với con cháu trong gia đình nên ngày tháng năm 20 tôi có bàn bạc với các con để cải tạo lại phần nhà tránh tình trạng dột nát, nguy hiểm kể trên. Tuy nhiên, UBND xã không cho phép gia đình chúng tôi cải tạo đồng thời yêu cầu gia đình phải ký lại bản hợp đồng thuê mảnh đất trên với UBND xã vào ngày tháng năm 20 và yêu cầu gia đình tôi phải nộp phí ...000.000 VNĐ/năm (bằng chữ: triệu đồng). Tuy biết khoản thu này là trái nguyên tắc nhưng gia đình tôi vẫn chấp thuận và đã nộp đầy đủ theo yêu cầu của chính quyền địa phương. Ngày tháng năm 20, Tôi đã làm đơn đề nghị UBND xã xác minh nguồn gốc sử dụng đất của gia đình và yêu cầu giải trình sự việc cản trở gia đình xây dựng cũng như việc buộc gia đình phải ký lại bản hợp đồng với mảnh đất mà gia đình đã sử dụng ổn định, lâu dài, không tranh chấp từ năm 1997 đến nay. Ngày tháng năm 20, Gia đình chúng tôi đã nhận được bản kết luận số /KL/UBND của UBND xã với nội dung: Kết luận thứ nhất: Hợp đồng số /HĐ-UB ngày //20 của UBND xã với ông Đỗ Văn M thuê mặt bằng để kinh doanh dịch vụ là hợp đồng chưa đúng quyền hạn của UBND xã. Như vậy, UBND xã đã thừa nhận việc yêu cầu gia đình tôi ký lại hợp đồng với UBND xã là không có căn cứ pháp luật,  hợp đồng trên vô hiệu về mặt chủ thể (“UBND xã ký hợp đồng thuê mặt bằng để kinh doanh là chưa đúng quyền hạn”). Với kết luận này tôi đề nghị UBND huyện .: Yêu cầu UBND xã Hủy bỏ hợp đồng số /HĐ-UB lập ngày //20 ký giữa UBND xã với Ông Đỗ Văn M; Yêu cầu UBND xã hoàn trả số tiền đã thu trái phép của gia đình ông Đỗ Văn M (số tiền : ...000.000 VNĐ/năm); Vì hợp đồng trên là không có hiệu lực nên việc thỏa thuận về các nội dung trong hợp đồng cũng không có giá trị áp dụng cụ thể “Bên thuê mặt bằng chỉ được xây dựng công trình nhà cấp 4, tường gạch chỉ 110mm bỏ trụ, cao không quá 4 m, mái lợp bằng ngói hoặc tấm lợp, không được xây dựng công trình kiên cố và quá diện tích được thuê”; Yêu cầu UBND xã không tiến hành việc cản trở hoạt động xây dựng hợp pháp của người dân. Nếu tiến hành việc ngăn chặn hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực xây dựng liên quan đến hoạt động bảo vệ hành lang đê điều phải có quyết định rõ ràng ? trong quyết định phải chỉ rõ gia đình tôi vi phạm quy định định nào? trong văn bản quy phạm pháp luật nào của nhà nước ? Chúng tôi sẵn sàng chấp thuận mọi chủ trương của Đảng và quy định của nhà nước trong lĩnh vực kể trên. Kết luận thứ hai:  Nguồn gốc thửa đất ông Đỗ Văn M đề nghị xác minh tại vị trí bờ hữu kênh gần đầu Cầu , thuộc . thôn . là đất công nằm trong hành lang bảo vệ đê điều và không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâu dài. Tôi cho rằng kết luận của UBND xã là hoàn toàn chủ quan, thiếu căn cứ và không dựa trên cơ sở pháp luật. Cụ thể: Vấn đề thứ nhất: UBND xã cho rằng đất đã thuê của Ông là đất công nằm trong hành lang bảo vệ đê điều. Tôi nhận thấy rằng, Theo quy định của Điều 13 Luật Đất đai năm 2003, thì đất đai được phân loại cụ thể thành 03 nhóm đất như sau: - Đất nông nghiệp; - Đất phi nông nghiệp; - Đất chưa sử dụng (bao gồm các loại đất chưa xác định mục đích sử dụng). Trong Luật Đất đai năm 2003 không có khái niệm pháp lý nào là “đất công”, mà chỉ có đất sử dụng vào mục đích công cộng, gồm đất giao thông, thủy lợi; đất xây dựng các công trình văn hóa...; đất xây dựng các công trình công cộng khác theo quy định của Chính phủ. Các văn bản của Chính phủ hướng dẫn chi tiết thi hành Luật Đất đai cũng không có quy định về “đất công”. Như vậy là ngoài các nhóm đất, loại đất đã được phân loại theo quy định của Luật Đất đai năm 2003, Uỷ ban nhân dân xã đã tự quy định thêm loại đất mới (đất công) trái với quy định của các văn bản pháp luật do các cơ quan nhà nước cấp trên ban hành và có hiệu lực pháp lý thống nhất trên toàn quốc. Đồng thời, UBND xã cũng cho rằng mảnh đất của Ông Đỗ Văn Mìn là đất “nằm trong hành lang bảo vệ đê điều”. Tôi cho rằng điều này là hoàn toàn vô căn cứ, bởi lẽ: - Thứ nhất, căn cứ theo quy định tại khoản 2, điều 23, Luật đê điều số 79/2006/QH11 về hành lang bảo vệ đê được quy định như sau: “a) Hành lang bảo vệ đê đối với đê cấp đặc biệt, cấp I, cấp II và cấp III ở những vị trí đê đi qua khu dân cư, khu đô thị và khu du lịch được tính từ chân đê trở ra 5 mét về phía sông và phía đồng; hành lang bảo vệ đê đối với các vị trí khác được tính từ chân đê trở ra 25 mét về phía đồng, 20 mét về phía sông đối với đê sông, đê cửa sông và 200 mét về phía biển đối với đê biển; b) Hành lang bảo vệ đê đối với đê cấp IV, cấp V do Ủy ban nhân dân cấp tỉnh quy định nhưng không được nhỏ hơn 5 mét tính từ chân đê trở ra về phía sông và phía đồng”. - Thứ hai, Căn cứ theo Quyết định số : 2207/QĐ-BNN-TCTL của Bộ Trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn về việc phân loại, phân cấp đê trên địa bàn thành phố Hà Nội ban hành ngày 13 tháng 09 năm 2012. Tôi nhận thấy rằng bờ hữu kênh Vân Đình không thuộc hành lang bảo vệ đê điều nên không thể xác định theo cách tính hành lang bảo vệ đê cấp đặc biệt, cấp I, Cấp II, Cấp III, Cấp IV; Cấp V và đê chuyên dùng. Như vậy, UBND xã đã đưa ra kết luận hoàn toàn trái với quy định của pháp luật về đất đai cũng như quy định của luật đê điều. Họ đã hiểu nhầm rằng đất của ông M là “đất công” và đã là “đất công” thì phải do nhà nước quản lý. Đồng thời, họ đưa ra nhận định chủ quan, sai luật rằng đất của Ông M thuộc hành lang bảo vệ đê điều và đương nhiên UBND xã đã xác định hành lang bảo vệ đê điều hoàn toàn sai vì họ tính từ mép bờ hữu kênh Vân Đình kéo vào 5 m để xác định hành lang bảo vệ đê điều mà quên mất rằng bờ hữu kênh Vân đình không nằm trong hành lang bảo vệ đê theo quy định của luật hiện hành. - Kết luận thứ ba: Không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất lâu dài. Về kết luận này gia đình chúng tôi xin có ý kiến như sau: Theo kết quả xác minh của UBND xã và dựa trên những tài liệu, chứng cứ cụ thể do gia đình cung cấp, nguồn gốc sử dụng đất của gia đình Ông M đã được xác định cụ thể như sau. Về chuyển nhượng quyền sử dụng đất :  Theo quy định tại khoản 2 điều 75 luật đất đai năm 1993 thì: “Hộ gia đình, cá nhân sử dụng đất ở, do chuyển đi nơi khác hoặc không còn nhu cầu ở được chuyển nhượng quyền sử dụng đất”.  Như vậy, người dân có quyền tự do mu bán, chuyển đổi quyền sử dụng đất và hình thức hợp đồng mua bán, chuyển nhượng có thể xác lập bằng giấy tờ viết tay (Theo thông lệ của thời điểm đó, chưa có văn phòng công chứng). Như vậy, từ năm 1997 đến năm 2002 gia đình tôi đã tuân thủ đầy đủ quy định của pháp luật và đóng thuế sử dụng đất đầy đủ đối với mảnh đất kể trên. - Năm 2013: Tháng 06 năm 2012 UBND xã thông báo cho gia đình nộp thuế theo biên lai thu thuế sử dụng đất phi nông nghiệp. Loại thuế đất phải nộp là thuế đất ở tại nông thôn. (Gửi kèm theo biên lai thu phí số 002664; ký hiệu HX/2012; mẫu CTT 09B nộp ngày 14 tháng 06 năm 2013) Quan điểm của Gia đình chúng tôi về nguồn gốc sử dụng đất của chúng tôi như sau: - Theo quy định luật đất đai năm 1993 do Quốc Hội ban hành ngày 14 tháng 07 năm 1993 (Văn bản này đã hết hiệu lực tại thời điểm hiện tại nhưng vẫn có giá trị áp dụng điều chỉnh các quan hệ pháp lý phát sinh tại thời điểm từ ngày văn bản này có hiệu lực đến hết ngày văn bản này hết hiệu lực). Theo quy định tại khoản 2, điều 3, luật đất đai năm 1993 thì “Hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất có quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, thừa kế, thế chấp quyền sử dụng đất”. Đồng thời tại điều 11, luật đất đai 1993 quy định phân đất đai thành 06 loại căn cứ vào mục đích sử dụng đất : 1. Đất nông nghiệp; 2. Đất lâm nghiệp; 3. Đất khu dân cư nông thôn; 4. Đất đô thị; 5.Đất chuyên dùng; 6. Đất chưa sử dụng”. Và theo đó nếu đất do nhà nước giao theo điều 22 sử dụng vào mục đích khác thì phải trả tiền sử dụng đất cụ thể “Tổ chức, hộ gia đình, cá nhân được Nhà nước giao đất để sử dụng vào mục đích sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản và làm muối không phải trả tiền sử dụng đất; nếu được Nhà nước giao đất để sử dụng vào mục đích khác thì phải trả tiền sử dụng đất, trừ các trường hợp được miễn, giảm theo quy định của Chính phủ”. - Theo quy định của luật đất đai năm 2003 thì theo quy định tại khoản 1, khoản 2 điều 49 quy định về những trường hợp được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất: “Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho những trường hợp sau đây: 1. Người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, trừ trường hợp thuê đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã, phường, thị trấn; 2. Người được Nhà nước giao đất, cho thuê đất từ ngày 15 tháng 10 năm 1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành mà chưa được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất;” Như vậy, căn cứ theo luật đất đai về xác định nguồn gốc sử dụng đất thì nguồn gốc sử dụng đất của chúng tôi là hoàn toàn rõ ràng (Sử dụng ổn định, lâu dài từ năm 1981, không tranh chấp) không nằm trong phạm vi quy hoạch (hành lang bảo về đê điều) thì tại sao chính quyền UBND xã có thể khẳng định là đất của Gia đình tôi không đủ điều kiện cấp sổ đỏ. Cùng với hành vi ngăn cấm, đe dọa xử phạt hành chính đối với hoạt động cải tạo và xây dựng nhà của gia đình chúng tôi, UBND xã căn cứ vào hợp đồng đã ký kết cho rằng gia đình tôi vi phạm thỏa thuận đã ký với xác nhưng sau khi xem xét lại đơn kiến nghị của gia đình chúng tôi UBND xã thừa nhận việc ký hợp đồng cho thuê mặt bằng mới là không đúng chức năng của UBNX xã. Đồng thời, UBNX xã đã có hàng loạt các quyết định hành chính, hành vi hành chính trái luật, cụ thể: Ngày 24 tháng 04 năm 2014 UBND xã ra công văn số 23/UBND về việc ngừng cấp điện, nước, cấm phương tiện vận chuyển vật liệu và người lao động cho công trình xây dựng vi phạm (Gửi kèm theo đơn công văn số 23/UBND của UBND xã ).  Việc cắt điện, nước của UBND xã vi phạm nghiêm trọng quy chế dân chủ cấp cơ sở, cản trở hoạt động kinh doanh hợp pháp, gây ảnh hưởng đến cuộc sống của gia đình chúng tôi. - Gửi kèm toàn bộ tài liệu, chứng cứ đã trình bày trong đơn      Hà Nội, ngày ... tháng ... năm 2015 Người khiếu nại (ký và ghi rõ họ tên)

File đính kèm:

  • docxmau_don_khieu_nai_giai_quyet_tranh_chap_dat_voi_ubnd_cap_xa.docx
Mẫu đơn liên quan